LAN HÀI CYPRIPEDIUM CANDIDUM
Chúng không bao giờ mọc tập trung ở một nơi nhất định, mà mọc rải rác ở hầu hết các nơi. Loài này đã được nuôi trồng trong vườn ở nước Anh, theo như Correl thì nó được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1826.
Cypripedium canadense Michx. (xem mô tả loài Cypripedium reginae Walt)
Cypripedium candidum Muhl. ex Willd.
Bạn đọc nên tham khảo đoạn giới thiệu về chương này và phần mô tả các loài C. calceolus và C. momtanum để có cái nhìn rộng hơn về sự phong phú của các loài phức hợp mà chúng ta đang nói ở đây là một thành viên trong đó.
Phân bố theo địa dư: Cypripedium candidum được tìm thấy ở New York, Pennsylvania, New Jersey đổ sang phía tây qua bang Great Lakes tận Dakotas, tràn xuống phía nam như Alabama và bắc tiến tới các tỉnh của Canada như Ontario. Chúng không bao giờ mọc tập trung ở một nơi nhất định, mà mọc rải rác ở hầu hết các nơi. Loài này đã được nuôi trồng trong vườn ở nước Anh, theo như Correl thì nó được giới thiệu lần đầu tiên vào năm 1826.
Môi trường sinh sống: Bình thường chúng sống ở các vỉa đá vôi, đây là loài ưa mát, không giống như các loài lan hài khác có thể phát triển tốt ở những đồng cỏ lộ thiên. Chúng phát triển ở nơi chúng được bảo vệ bởi những rừng cây lấy gỗ hoặc bụi rậm. Chúng chịu được khô hạn, thường ưa thích ở những nơi có nhiều mùn.
Những điểm lưu ý khi nuôi trồng: Xem phần nói về môi trường sống nói ở trên. Loài này thích nghi với điều kiện khí hậu mát tự nhiên.
Mô tả: Cây phát triển và ra hoa khi nó đã đạt độ cao tới 30-40 cm. Những cái thân thẳng đứng, thoạt nhìn dễ lầm tưởng thân của chúng to, song thực ra gốc của chúng được bao bọc bới các vỏ lụa của lá, những vỏ lụa đó giữ cho đứng thẳng bởi quấn chặt lấy gần như toàn bộ thân của nó. Phía trên những cái lá ở gốc, có 2-4 lá cứng làm thành một cái góc nhọn với thân. Có một điểm đặc trưng không bình thường của những lá mọc tự do này là gân giữa của lá lại thường nổi bật hơn là những gân chạy song song trên lá; cái gân lá nổi bật lên như thế làm cho lá như vừa là loại lá gập lại vừa là loại lá nhọn. Chiều dài của lá đo được 10-20 cm và rộng 2,5-5 cm. Lá bắc của hoa thì nhỏ hơn và giống hình ê-lip nhiều hơn, nhưng mặt khác nó lại tương tự như những lá ở phía trên. Toàn thân của cây có một lớp lông tơ thưa thớt.
Một đặc trưng của loài này, đó là cùng với kích thước nhỏ hơn, thì những điểm nổi trội khác với loài Cypripedium montanum là việc ra hoa của loài C. candidum thường trước khi các lá đã sắp xếp đầy đủ. Ở loài montane lá lớn hơn và khi lá đạt kích thước đủ lớn thì nó bắt đầu ra hoa.
Hoa ken dầy, mỗi hoa có kích thước 6-7 cm theo chiều cao và rộng 4-6 cm. Các lá đài và các cánh hoa có màu xanh ô-liu đến màu ka-ki, trắng, túi màu trắng luôn. Lá đài sau và lá đài bên có hình thon dài, đầu nhọn. Mép cánh hoa và lá đài gợn sóng và gần như gập đôi lại. Lá đài sau dài 2-3 cm, rộng 1-2 cm. Lá đài ở dưới bụng cân đối nhưng nhỏ hơn một chút.
Các cánh hoa có sọc và xoắn, theo hướng rủ xuống. Cánh hoa có chiều dài 3,5-4,5 cm, rộng 0,5-1 cm.
Cái túi trắng có những vân màu hạt dẻ, chiều dài lơn hơn chiều rộng của túi và ở vị trí gần như vuông góc với vòi hoa. Phần trên túi có miệng và hơi dẹt. Phía bên trong túi có lông tô.
Nhìn tổng quát thì hoa của nó thuộc dòng alba của loài Cypripedium calceolus var. parviflorum. Chúng được biết đến là lai trong tự nhiên giữa hai biến loài của Cypripedium calceolus. Hơn nữa, Atwood (sau năm 1985) đã phân biệt giữa loài Cypripedium calceolus var. parviflorum túi trắng (mà ông ấy gọi là Cypripedium parviflorum) với loài Cypripedium candidum, dựa trên cơ sở khoảng cách sát nhau của gân được sắp xếp trên lá của Cypripedium candidum, và căn cứ vào khoảng cách những đường gân cứng cáp và có khoảng cách lớn hơn, có cùng môi trường sống.
Mùa ra hoa: Tháng Tư đến tháng Bảy.
Tên chung: Cypripedium candidum còn được gọi là Small White Lady’s Slipper (Hài trắng nhỏ) và White Moccasin Flower (Hoa rắn hỗ mang).
CẦN TƯ VẤN KỸ THUẬT LIÊN QUAN ĐẾN NẤM BỆNH HẠI VÀ QUY TRÌNH KỸ THUẬT VỀ CÂY TRỒNG
XIN MỜI BÀ CON GỌI ĐIỆN THOẠI VỀ SỐ 0982.427.033